1 tháng 3, 2013

Điều 4 Hiến Pháp

Điều 4 Hiến pháp ghi rằng :
1- Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2- Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Điều 4 dự thảo sửa đổi Hiến pháp ghi rằng : 
 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.


Rất nhiều ý kiến tranh luận xem coi có nên bỏ điều này trong hiến pháp hay không hoặc phải chỉnh sửa như thế nào mới phù hơp. Tôi cũng xin có ý kiến như thế này :
1. Nên nói theo đúng tinh thần thực tế đang xảy ra là Đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo độc quyền nhà nước và xã hội - điều 4 không ghi việc độc quyền (hoặc duy nhất này). Nên ý kiến đúng là Đảng cầm quyền (đảng cộng sản) có nên độc quyền lãnh đạo nhà nước hay không ? Có 3 lý do để dẫn đến quyết định đảng có nên lãnh đạo độc quyền nhà nước và xã hội hay không :
  Yếu tố thứ nhất liên quan đến văn hóa : gần bốn ngàn năm giữ nước tạo cho dân tộc ta một nét văn hóa riêng biệt mà gọi tạm là văn hóa chiến tranh. Văn hóa chiến tranh ăn sâu vào cách hành xử của con người Việt nam ngay cả trong thời bình. Văn hóa chiến tranh đó thể hiện qua mối quan hệ với cấp trên là chỉ tuân thủ, tôn trọng và chấp hành mệnh lệnh một cấp trên duy nhất. Trong chiến tranh là phải vậy nhất là những cuộc chiến của dân tộc ta là cuộc chiến chống những kẽ xâm chiếm hùng mạnh hàng đầu thế giới. Văn hóa này còn được tô đậm bởi chế độ phong kiến dân tộc của nước ta.
   Yếu tố thứ hai liên quan đến chiến tranh : bất kỳ khi nào đất nước không đoàn kết quanh một vị vua hoặc một lãnh tụ kiệt xuất thì lúc đó ta chắc chắn mất nước. Kẽ thù chúng ta hùng mạnh đến mức chỉ cần không thống nhất được trong các quyết định chiến lược thì sai lầm rất khó để sửa chữa. Khi còn đứng bên bờ vực chiến tranh là phải bảo đãm đất nước thống nhất, trên dưới một lòng. Yếu tố thứ hai được thể hiện trong giai đoạn này không phải là bọn xâm lược Trung quốc mà là chính nước Mỹ. Nước Mỹ hùng mạnh đến giờ vẫn chưa chính thức thừa nhận mình thua và sai trong cuộc chiến tranh với Việt nam. Trong lòng nước Mỹ, cuộc chiến tranh Việt nam vẫn chưa kết thúc, với việc nhà nước Mỹ sử dụng con dao 2 lưỡi, một mặt công nhận chính thể nước Việt nam, một mặt vẫn ủng hộ những tàn dư chính thể cũ. Chẳng có người lãnh đạo nước Việt nam nào mà không lo toàn bộ thành quả cuộc chiến tranh đòi độc lập của dân tộc bị xóa bỏ khi lực lượng của chính thể cũ quay lại nhất là lực lượng đó được sự ủng hộ trực tiếp của nước Mỹ.
   Yếu tố thứ ba liên quan đến trình độ dân trí.

2. Các quy định trong điều 4 - Hiến pháp cũng không rõ ràng :
   Phần thứ nhất : Đọc kỹ điều 4 trong Hiến pháp không có quy định nào quy định chỉ một đảng cộng sản được quyền lãnh đạo đất nước. Điều 4 chỉ thừa nhận đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhưng không ghi rằng đảng là "lãnh đạo duy nhất" hoặc "lãnh đạo cao nhất". Cần phân định rõ việc lãnh đạo, lãnh đạo cao nhất, và lãnh đạo duy nhất. Nếu là lãnh đạo duy nhất thì chỉ duy có một đảng cộng sản lãnh đạo, tất cả các đảng khác đều không được tham gia lãnh đạo đất nước (như tình hình hiện giờ). Nếu là lãnh đạo cao nhất là đảng sẽ chiếm giữ những ghế cao nhất trong một bộ máy hành chánh vd cấp trung ương là chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng, ở cấp tỉnh là chủ tịch tỉnh, lãnh đạo cao nhất không phải lãnh đạo duy nhất và những cấp lãnh đạo khác có thể dành cho đảng khác. Nếu chỉ là lãnh đạo không thôi thì đảng được nắm (VD) thượng viện, hoặc có sẳn 40/300 ghế của đại biểu quốc hội, hoặc nắm giữ một số vị trí nào đó trong chính phủ và cũng chỉ thế thôi, những vị trí khác sẽ do đảng khác nắm. Để đúng, trong hiến pháp nên quy định rõ đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo duy nhất.
   Phần thứ hai - ghi đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo duy nhất cũng khó, bởi vì giả sử trong đảng có một nhóm bất đồng, đứng ra hoặc tách ra thành lập một đảng khác, đương nhiên lúc đó đảng này cũng là đảng cộng sản. Vậy có quyền có hai đảng cộng sản (hoặc nhiều hơn) cùng hoạt động hay không. Đến đây nhiều người biện luận rằng đảng cộng sản chỉ có một, bởi vì người đại điện cho giai cấp công nhân chỉ có một. Vậy nếu chỉ một trong hai đảng cộng sản mới đủ tư cách lãnh đạo, thì phải xem xét vế thứ hai. Đảng nào mới chính là đảng cộng sản. Ta biết trong luận điểm của Mác - Lênin, đảng cộng sản phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, tức là đa phần những người lãnh đạo phải xuất thân từ giai cấp công nhân và được chính giai cấp công nhân bầu chọn. Nếu một vị đại biểu nào nằm trong công đoàn (được mệnh danh là đại điện cho công nhân (người lao động)) thành lập một đảng và tự phong là đảng cộng sản thì sự việc thật khó phân xử về việc ai là người lãnh đạo. Tôi nghĩ nên ghi rõ "đảng cầm quyền và đảng kế thừa hợp pháp của đảng cầm quyền là lực lượng lãnh đạo duy nhất Nhà nước và xã hội".
   Phần thứ ba nên bỏ khúc "đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đội tiên phong của nhân dân lao động, của dân tộc Việt nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc" nghe giống như một khẩu hiệu . Đội tiên phong, đại biểu là phải được bầu chọn. Chả ai tự phong cho mình chức tiên phong hoặc là đại biểu. Đại biểu là người đại diện một nhóm người qua bầu chọn, còn tiên phong là anh phải chính là người trong nhóm đó. Ví như đại biểu giai cấp công nhân là anh được giai cấp công nhân biểu quyết để chọn và nếu là đội tiên phong thì bản thân người tiên phong phải là công nhân. Còn đảng cầm quyền của ta đâu phải do giai cấp công nhân bầu chọn, đồng thời những người lãnh đạo (đa số) của ta cũng không phải là công nhân hoặc xuất phát từ chính giai cấp công nhân.


Từ 2 phân tích trên, điều 4 nên ghi gọn lại như sau :
  Đảng cầm quyền là lực lượng lãnh đạo duy nhất Nhà nước và xã hội Việt nam trong thời chiến tranh.

Ngoài ra nên thêm 2 phần mới vào trong điều 4 như sau :
  Đảng cầm quyền là lực lượng lãnh đạo duy nhất Nhà nước và xã hội Việt nam trong thời chiến tranh.
  Xét thấy chiến tranh có đe dọa đất nước hay không, khi có quyết định của Chủ tịch nước hoặc trên 1/2 số thành viên trong Quốc hội, sẽ thực hiện trưng cầu dân ý về việc đảng cầm quyền chấm dứt hay bắt đầu trong việc là lãnh đạo duy nhất Nhà nước và xã hội.

Và theo tình hình hiện tại nên tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về việc đảng cầm quyền có nên tiếp tục hay không việc là "lãnh đạo duy nhất" Nhà nước và xã hội Việt nam.

22 tháng 2, 2013

Trả lời gì cho cuộc khủng hoảng

Gần một năm cho cuộc khủng hoảng kinh tế bùng phát. Tình hình ngày càng tệ đi. Nhiều bạn thư về hỏi tôi, sao chẳng thấy ai đứng ra giải quyết cuộc khủng hoảng này. Thật không biết trả lời ra sao. Thôi đành trả lời những câu hỏi mà các bạn cắc cớ muốn nghe câu trả lời mặc dù không biết đúng hay không (nếu thấy sai các bạn đừng trách nghen).
Câu nhiều người hỏi nhất - tại sao khủng hoảng trầm trọng mà vẫn có người phất lên.
     Trả lời : Đây không phải là cuộc khủng hoảng tiêu dùng mà là cuộc khủng hoảng sức mua. Nôm na chúng ta có tổng số tài sản là 100đ, nhưng trong túi người dân chỉ có 50đ để mua. Và vì thế 50đ khi là sản phẩm tồn kho. Nhưng khi nền sản xuất giảm hoặc không sản xuất nữa thì đến giai đoạn nào thì hàng tồn kho cũng hết đi, khi đó những doanh nghiệp nào còn tồn tại sẽ vẫn có thể tiếp tục sản xuất miển tổng trị giá sản phẩm sản xuất ra không vượt quá 50đ, quá 50đ sẽ lại tiếp tục khủng hoảng. Mặt khác khủng hoảng khiến giá trị tiêu dùng của người dân giảm dần, nói dể hiểu như ông trung lưu khi mua quà tặng cho sếp khi chưa khủng hoảng là một thùng bia heineken, khi khủng hoảng xảy ra thì tặng nước ngọt. Nhưng ông nhà giàu khi chưa khủng hoảng tặng một chiếc đồng hồ, nay vào khủng hoảng thì tặng bia heineken. Ông bán đồng hồ chắn chết nhưng ông bia heineken vẫn bán được vì vẫn có người mua nhưng số lượng giảm dần do người giàu ít hơn người trung lưu. Mặt khác có những mặt hàng tiêu dùng dù có khủng hoảng hay không người ta vẫn phải dùng (như gạo, mắm muối v.v..). Vì vậy bạn thấy có những vị vẫn giàu trong khủng hoảng. Nhưng số lượng đó ít dần và họ cũng sẽ cảm nhận sức ép của khủng hoảng ngày càng tăng, vd người ta tặng bia heineken ít dần đi. Tôi rất khâm phục một số phương tiện truyền thông rêu rao " chấn chỉnh, thay đổi, cấu trúc lại v.v..." để tận dụng khủng hoảng mà tiến lên. Theo tôi tình hình khủng hoảng này (dự trữ nhà nước cạn, dự trữ trong dân cũng cạn, tiền vay không có), doanh nghiệp nào không chết cũng đã đáng phong hiệu Anh Hùng rồi.
Câu hỏi thứ hai - nên thực hiện gói cứu trợ như thế nào.
     Trả lời : Tôi xin nhắc lại câu trả lời trong phần bài trước - mọi gói cứu trợ hiện giờ là chính cứu trợ cho các tập đoàn tham nhũng, chứ là gì mà cứu trợ cho nền kinh tế. Ngân hàng được thành lập vô tội vạ để rửa tiền cho các quan tham và bỏ tiền vào kinh doanh chứng khoán và bất động sản. Ngân hàng báo lợi nhuận khủng là do tỉ suất cho vay 2 ngành trên (chứng khoán và bất động sản) quá cao, chứ bản thân nền kinh tế Việt nam đang ăn vào vốn chứ làm gì kinh doanh có lãi mà ngân hàng cho doanh nghiệp vay có lãi (chứ nói chi đến lãi khủng). Nay chứng khoán thoi thóp, bất động sản chết, các khoản vay biến thành nợ xấu, các khoản lãi khủng (lãi đã hạch toán khống) không biết hạch toán vào đâu. Ngân hàng chỉ còn vỏ bọc, sống nhờ vào tiền gửi tiết kiệm (lấy tiền mượn trả tiền lãi). Nếu không giải quyết được nợ xấu thì ngân hàng chết chùm. Các bạn rồi coi, nếu có gói cứu trợ thì sẽ cứu trợ doanh nghiệp bất động sản, nhưng chẳng có dòng tiền nào chu chuyển cả, người ta chỉ gạch xóa nợ từ bất động sản sang ngân hàng và rồi từ ngân hàng qua nhà nước. Cuối cùng bọn tham nhũng thoát tội, còn nợ nhà nước thì người dân đóng thuế phải tiếp tục trả thôi.

Một xã hội giống như một gia đình hoặc anh đi làm thuê hoặc anh mở một doanh nghiệp để kinh doanh. Xã hội chúng ta chọn phương án kinh doanh làm chuẩn. Nhưng kinh doanh phải đạt 2 vấn đề cốt lõi : năng suất và hiệu quả. Năng suất  không được quan tâm, nay chắc là đứng bét thế giới. Hiệu quả đầu tư thì thua lổ triền miên. Khỏi nói các bạn cũng biết trước kết quả rồi. Mới đầu ăn phần vay, sau đó ăn phần vốn tiền, rồi ăn luôn vốn tài nguyên và bây giờ chính phủ tìm cách ăn luôn tiền dự trữ trong dân. Ăn hết mà không chết mới lạ.

15 tháng 6, 2012

Mặt sau gói cứu trợ mua nợ xấu


Nhà giàu tại Việt nam, anh là ai ?
Cách đây khoảng 20 năm, trước thời đổi mới, chúng ta không có người giàu (nếu có cũng bị đi cải tạo công thương nghiệp mất rồi).
Sau năm 1990, khi những cải cách nhà nước làm thay đổi cách hành xử về đất đai. Đất đai từ sở hữu nhà nước chuyển qua sở hữu tư nhân, trị giá của nó trở về giá trị thật. Đây là con mồi béo bở cho những những kẻ làm giàu. Ai sẽ giàu, tất nhiên đầu tiên là các quan chức chính phủ từ người tham nhũng cho đến người không tham nhũng. Người tham những thì lợi dụng chức quyền dùng mọi thủ đoạn chiếm đoạt đất đai nhất là đất ở những nơi vô chủ. Những người không tham nhũng thì tìm cách trục lợi qua kẻ hở của pháp luật, mới đầu họ hưởng lợi từ chính sách cấp phần cho cán bộ có công, sau đó bán đi và mua lại mảnh đất khác với giá hổ trợ từ nhà nước hoặc mua bằng miệng bán bằng tiền thật. Thứ hai là bọn cơ hội ăn theo các quan chức này. Rồi mới đến người khôn ngoan tranh thủ mua bán kiếm chác. Thời này nói các quan chức nói đúng cũng chưa giàu, họ chỉ mới có đất mà thôi. Còn giàu là bọn cơ hội và người làm ăn.
Tám năm sau, một đợt đại gia giàu có khác xuất hiện từ việc cổ phần hoá các xí nghiệp nhà nước. Gần hết các xí nghiệp khi chuyển mô hình đã không được định giá chính xác (từ tài sản như nhà xưởng, đất đai, những lợi thế kinh doanh cho đến thương hiệu) khiến cho việc lên sàn chứng khoán của họ biến thành món mồi ngon cho tầng lớp quan chức dưới danh nghĩa là nhà quản l‎‎ý các doanh nghiệp. Họ khôn khéo cổ phần hoá doanh nghiệp đang có với số lượng đại chúng, chia đều cho cả người lao động, sau đó mua gom nó trước khi phát hành nó ra thị trường chứng khoán. Họ cũng khôn khéo trong việc thành lập các Cty con trong Cty mẹ. Cty mẹ vẫn nhà nước. Vốn Cty con do Cty mẹ cung cấp, và cty con vẫn được cổ phần hoá. Cổ phần đó được định giá gốc và sẽ được chuyển cho một cá nhân quản lý nào đó nếu cổ phiếu tiếp tục tăng giá, hoặc vẫn giữ nhà nước nếu cổ phiếu xuống giá. Nhưng giá cổ phiếu thì lên xuống thất thường, giữ mà không làm chủ được giá cổ phiếu thì đâu thể trở thành người giàu khủng được.
Năm năm sau từ ngày manh nha hình thành một cổ phiếu, một thế hệ đại gia khủng ra đời. Đây là thế hệ nhà giàu khủng mà có lẻ chỉ có ở nước ta. Ở các nước chuyển từ nền kinh tế phi thị trường sang nền kinh tế thị trường thường người giàu có nhất xuất hiện trong 2 giai đoạn đầu nhất là giai đoạn thứ hai, nhưng ở Việt nam mãi đến giai đoạn này mới bắt đầu xuất hiện người giàu nhất. Những người giàu nhất này xuất hiện từ trong mối liên kết ma quỷ giữa dòng vốn + cổ phiếu + bất động sản. Sự liên kết hữu cơ này dưới sự dẩn dắt của những ngân hàng mới được thành lập, biến cổ phiếu và đất đai được tích tụ trong thời gian qua thành tiền. Người ta cố gắng tô vẽ mỹ miều về lợi tức hấp dẫn của thị trường chứng khoán, cung cấp vốn thoải mái để người dân vay mượn thế chấp qua tài sản của mình. Một lượng vốn khổng lồ đi vào chứng khoán đẩy thị trường lên hơn 1200 điểm. Đẹp như mơ cho các đại gia nhưng tàn nhẩn cho những người dân tham gia trong đó. Chứng khoán mất điểm, hàng ngàn người dân mất nhà cửa, người thân, bù lại chúng ta có một tầng lớp đại gia cực kỳ giàu có xuất hiện. Những đại gia theo con đường này, theo tôi nghĩ chắn chắc phải hoặc là người thân hoặc là vây cánh các quan chức chính phủ.
Nói vậy không phải những người trong top giàu nhất ai cũng như vậy. Có những người là chủ doanh nghiệp lớn rồi mới cổ phần hoá. Có những người biết tranh thủ cơ hội làm ăn để giàu có mà không phạm lương tâm. Và số này chắc sẽ không được nhận cứu giúp từ chính phủ đâu. Người ta sẽ tìm mọi cách để ra một chính sách mua khoản nợ xấu. Ai sẽ được mua nợ, mỹ miều thì là những doanh nghiệp hàng đầu, những doanh nghiệp có ảnh hưởng đến thị trường, nhưng chính xác thì là những doanh nghiệp nằm trong liên minh ma quỹ ngân hàng, cổ phiếu, và bất động sản. Cũng giống như thời đỉnh cao chứng khoán, người dân tham gia sẽ chết, bây giờ các doanh nghiệp sẽ chết chỉ để đạt mục đích cuối cùng những đại gia với cổ phiếu không thể xuống.
Cứu trợ bằng hình thức mua nợ xấu cũng là một trong những giải pháp để hổ trợ những doanh nghiệp hàng đầu nào không trụ nổi trong quá trình thực hiện một chiến lược thoát khỏi khủng hoảng. Giải pháp mua nợ xấu chỉ là giải pháp tình thế. Một chiến lược cứu trợ cho nền kinh tế phải có giải pháp mua nợ xấu nhắm đề phòng những doanh nghiệp hàng đầu có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế không phù hợp với tiến trình của chiến lược. Không thể cứu nền kinh tế bằng một giải pháp tình thế như giải pháp mua nợ xấu. Ngay bây giờ chính phủ không định ra được bất kỳ chiến lược nào để đưa nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng mà tung gói giải pháp mua nợ, thật chất  có lẽ như điều đã bàn ở trên.

10 tháng 6, 2012

Doanh nghiệp nhà nước - là ai

Bốn vấn đề để nhận định về Doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

1. DNNN là doanh nghiệp giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế. Tuy làm ăn không hiệu quả, nhưng khi nó nhức đầu sổ mũi là nền kinh tế có thể có vấn đề. DNNN hiện giờ, như tách hẳn mọi hoạt động thị trường. Thị phần những DNNN hàng đầu gần như là độc quyền. Thường có những mặc cả khi đụng chạm đến mọi sự thay đổi của DNNN. Đó không phải là sự ỏng ẹo của một ông độc quyền mà đó là sự mặc cả của hệ thống chính trị. Ai nắm giữ kinh tế, người đó nắm giữ quyền lực. DNNN thường được thổi phồng về đặc quyền, được giao những trọng trách liên hoàn để bảo đảm không có sự cạnh tranh, không có sự thay thế. Thậm chí khi bị mặc cả họ chấp nhận lùi ra khỏi một phần thị trường, nhưng phần nhường đó thường là phần sống dở chết dở cho bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tham gia (điển hình trong sự phát triển công nghệ phụ trội). Phe phái chính trị nào nắm nhiều quyền điều hành các DNNN, phe phái đó có nhiều quyền hơn trong việc thương lượng. Còn lâu mới xoá bỏ được DNNN nếu không tách bạch được giữa thể chế chính trị và kinh tế.

2. DNNN là nơi giữ phần lớn ngân sách nhà nước. Một khoản chi từ tiền thuế của dân vào túi cá nhân một cách hợp pháp. Mọi hoạt động chính trị thường rất cần nhiều chi phí. Không thể có chính trị nếu không có kinh tế.  Muốn bôi trơn các hoạt động, tìm kiếm sự ủng hộ phải có tiền, mà càng nhiều tiền càng tốt. Trong tình hình nước ta, không thể kiếm nguồn thu từ các hoạt động doanh nghiệp bên ngoài thông qua tài trợ. Nguồn thu từ DNNN thông qua các hoạt động kinh tế hợp pháp là nguồn bổ sung tài chính tốt nhất cho kinh phí hoạt động chính trị cũng như các chi phí cá nhân. Các khoản vay từ nước ngoài do nhà nước bảo lãnh dưới nhiều hình thức được trực tiếp rót vào các DNNN là khoản chia hấp dẫn nhất. DNNN cứ như con vạc khát, đổ khoản vay này lại thấy vay khoản khác. Chưa thấy khoản vay nào công bố có hiệu quả, nhưng vẫn tiếp tục rót vốn, thậm chí khi đủ điều kiện phá sản (như Vinashin) người ta vẫn cố vực vậy để có cơ hội tiếp tục bơm tiền vào nó. Nhưng đố làm sao kiểm tra được tình hình tài chính của DNNN.

3. Tầng lớp lãnh đạo muốn có người tiếp quản sự nghiệp, thì không đâu tốt bằng con đường DNNN. Họ đưa con cháu vào DNNN, nâng cấp dần dần đến giai đoạn nào đó, đưa ra hoạt động chính trị. Dùng tiền nhà nước để đánh bóng tên tuổi cho các lãnh đạo doanh nghiệp, sau đó họ bước ra chính trường. Thật là tuyệt diệu, bởi vì đưa vào con đường chính trị, bước từng nấc thang, thì dễ bị bắt bài là con ông cháu cha, và dễ bị xét nét về năng lực chính trị. Trong khi hàm tổng giám đốc công ty lớn tương đương giám đốc sở, một bước là bay cao. DNNN có lỗ, tổng giám đốc có bất tài – hiệu quả kinh doanh không có, năng suất lao động kém – chẳng ai biết. Doanh nghiệp vẫn cứ phát triển, vẫn đi lên, doanh số công bố hằng năm tăng trưởng đều đặn, vốn tăng trưởng đều đặn, cơ sở vật tư, tài sản càng nhiều, lãnh đạo càng nổi tiếng, càng nhiều người biết. Mà làm doanh nghiệp thì sướng, cần thì mở thêm doanh nghiệp, không cần thì xoá bớt, chả ai nói được bởi đó là lãnh vực của doanh nghiệp mà.

4. Cái thời hình thành thị trường chứng khoán, cổ phiếu là nơi tạo ra một tầng lớp tư bản mới. Người ta đua tranh nhau để có cổ phiếu thông qua việc thành lập các công ty cồ phần. Các vị tài năng có rất nhiều ý tưởng để có được cổ phiếu từ nguồn vốn vô tận của DNNN như vay tiền DNNN mua cổ phiếu, lấy danh nghĩa quỹ DNNN bỏ ra mua cổ phiếu, thành lập Cty liên doanh với tư nhân nhưng thật ra cũng chỉ là vốn DNNN, và thậm chí thành lập những cty con rồi cổ phần hoá để những vị lãnh đạo hoặc người thân hoặc phe cánh của họ quản lý và mặc nhiên làm chủ số cổ phiếu đó. Hiện giờ cổ phiếu đi xuống thấp hơn giá phát hành. Các nhà quản lý Cty con đã thay đổi - việc thay đổi để khẳng định việc thua lổ từ cổ phiếu là bình thường. Các nhà quản lý Cty mẹ nào khôn ngoan cũng tìm cách thay đổi hoặc về hạ cánh an toàn. Cái còn lại của DNNN là khoản vốn đầu tư cổ phiếu thua lỗ không biết hạch toán vào đâu.

Từ 4 vấn đề trên, thực sự không dể gì lay chuyển được DNNN. Nhưng nếu không thay đổi cách hành xử về DNNN, rồi sẽ đi vào con đường chết vì lý do sau :

  1. Kinh tế không tách bạch chính trị, tham nhũng trở thành vấn nạn không bao giờ giảm. Vì phải tạo điều kiện cho con em, người thân, phe cánh vào DNNN, đã tạo ra một con đường khác cho kẻ cơ hội. Phần chia cho nhau thường ít hơn phần của kẻ cơ hội. Tham nhũng càng tăng, bọn cơ hội càng nhiều làm mất niềm tin vào sự điều hành của chính phủ.
  2. Một lượng vốn quá lớn chảy vào DNNN tạo ra một lượng GDP tăng vọt ảo. Một con đường được làm mới tạo một mức tăng GDP là 5% (ví dụ), ta làm mới con đường đó 4 lần GDP tăng 20%, nhưng tất cả thật ra chỉ có một con đường và  nó cũng đã hư đến mức phải dự trù làm lại lần 5.
  3. Một nền kinh tế cũng giống như một doanh nghiệp. Nếu kinh doanh hoà vốn chỉ có thể trả các khoản đầu tư. Và chỉ kinh doanh có lời mới nói đến phát triển doanh nghiệp. Hệ thống DNNN sử dụng một lượng đầu tư lớn chỉ để tạo doanh thu và hiệu quả xã hội mà không tạo ra bất kỳ hiệu quả kinh tế nào thì quả là chúng ta đang ăn vào đuôi của chính mình, chứ đừng nói là phát triển. Nguyên nhân cơ bản nhất của cuộc khủng hoảng sức mua hiện nay bắt nguồn từ chính việc ăn vào đuôi của nền kinh tế nước mình.

8 tháng 6, 2012

Lời kêu gọi Doanh nhân và Doanh nghiệp trên toàn quốc

Dựa vào 7 nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và 13 giải pháp để thoát ra khỏi khủng hoảng đã phân tích trong blog.
Dựa tình hình kinh tế ngày càng xấu đi mà không được cải thiện.
Nhận thấy rằng chính phủ vẫn loay hoay với các giải pháp chỉ để bảo vệ quyền lợi cho một nhóm lợi ích của họ.

Nay, tôi ra lời kêu gọi trên toàn quốc.

Phàm ai là doanh nhân dù già hay trẻ, nam hay nữ.
Phàm là doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù nhà nước hay tư nhân.
Hãy cùng nhau chung tay đưa nền kinh tế của đất nước ta vượt qua khủng hoảng.

Phương án kêu gọi mọi doanh nhân và doanh nghiệp đồng lòng thực hiện :
  1. Giảm giá tối thiểu 30% giá sản phẩm hiện tại. Bao gồm khoản giảm lợi tức (10%), giảm các chi phí khác (8%), đề nghị nhà nước hổ trợ giảm thuế VAT và lợi tức (7%), giảm từ đầu vào do doanh nghiệp cung ứng cũng giảm giá (5%).
  2. Giảm mức chênh lệch thu nhập giữa nhóm người lãnh lương cao nhất và nhóm người lãnh lương thấp nhất trong doanh nghiệp. Nên tăng lương cho nhóm thu nhập thấp và tăng tuyển dụng để làm sức mua trong xã hội tăng lên.
  3. Các doanh nhân hàng đầu, các doanh nghiệp có liên quan đến nhập khẩu hãy tìm cách hạn chế đến mức thấp nhất việc nhập khẩu, nhất là những hàng hóa có thể sản xuất được tại Việt nam.

Phương án này chỉ có thể thực hiện tốt khi được sự tham gia của toàn bộ doanh nhân và doanh nghiệp trong nền kinh tế của chúng ta.

Tôi kêu gọi đến trách nhiệm và lòng tự trọng dân tộc của mọi doanh nhân và doanh nghiệp Việt nam trong sự tồn vong và phát triển của đất nước. Đây là lúc mọi người phải rũ bỏ sự riêng tư, ích kỷ để cùng đoàn kết nhau thực hiện hoàn tất phương án trên.

Nếu bạn đồng ý tham gia hoặc ủng hộ lời kêu gọi trên hãy email cho tôi theo địa chỉ perimpco@gmail.com.
Nếu bạn vô tình nhận thư này, hãy gửi nó đến với bất kỳ doanh nhân hoặc doanh nghiệp nào mà bạn biết.

Chân thành cảm ơn sự ủng hộ nhiệt tình của các bạn.

Hãy vì một nước Việt nam giàu mạnh

22 tháng 5, 2012

Khủng hoảng kinh tế Việt Nam rồi sẽ đi đến đâu ?

Điểm lại các bước để nền kinh tế đi vào khủng hoảng.

Bước 1 : Giá cả thế giới tăng, xuất khẩu được lợi do giá xuất khẩu tăng. Xuất khẩu được thúc đẩy phát triển. Giá bán tăng kèm theo giá mua tăng. Các mặt hàng xuất khẩu tốt đa phần là hàng tiêu dùng trong nước. Giá xuất khẩu tăng cao, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, người tiêu dùng trong nước bắt đầu khốn khó nhất là tầng lớp thu nhập thấp. Sức mua từ tiêu dùng dân cư bắt đầu giảm.

Bước 2 : Giá cả thế giới vẫn tăng khiến những mặt hàng nhập khẩu bắt đầu tăng giá theo. Ảnh hưởng nhất trong việc tăng giá là xăng dầu và vàng. Giá nhiên liệu tăng ảnh hưởng trực tiếp vào chi phí doanh nghiệp. Bị hai áp lực một từ chi phí nhiên liệu và nguyên liệu, hai là từ thu nhập người lao động nên doanh nghiệp buộc phải tăng giá bán. Giá bán một doanh nghiệp thường ảnh hưởng dây chuyền những doanh nghiệp khác, nên giá bắt đầu tăng đồng loạt.

Bước 3 : Giá tăng trên toàn xã hội khiến nhà nước giật mình. Thay vì điều chỉnh xuất nhập lại điều chỉnh dòng tiền bằng cách hạn chế để tránh lạm phát. Việc hạn chế này bước đầu chỉ làm ảnh hưởng đến thị trường bất động sản (do thị trường này rất ngốn tiền). Nhưng lỡ cho bất động sản và chứng khoán vay quá nhiều, nay lại bị xiết cung tiền nên dòng tiền đưa ra ngoài thị trường càng bị hạn chế. Cộng bước 1 và bước 2 làm sức mua của doanh nghiệp giảm dần.

Bước 4 : Lo sợ lạm phát, nhà nước xiết chặt chi tiêu công. Chi ít lại, giá cả lại tăng. Sức mua công giảm dần.

Bước 5 : 3 trụ cột trong sức mua là sức mua trong dân, sức mua của doanh nghiệp, sức mua của nhà nước đều giảm. Khủng hoảng sức mua bắt đầu xuất hiện. Một trong những hình thái khủng hoảng là tồn kho bắt đầu tăng cao. Tồn kho tăng, không vay thêm được tiền khiến cho sức mua của 3 bộ phận (dân cư, doanh nghiệp, nhà nước) rơi xuống đáy.

Bước 6 : Doanh nghiệp nhỏ chết trước tiên. Doanh nghiệp nhỏ thường hoạt động riêng rẻ trên những phân khúc ngách của thị trường. Doanh nghiệp nhỏ thường gắn thương hiệu vào sản phẩm và hoạt động bán hàng. Sản phẩm doanh nghiệp nhỏ thường khác biệt và giá cao đánh vào phân khúc giá trung cao của mọi tầng lớp. Tất nhiên doanh nghiệp nhỏ phục vụ cho tầng lớp thu nhập thấp hơn sẽ ra đi trước rồi đến doanh nghiệp nhỏ phục vụ cho tầng lớp thu nhập trung bình.

Bước 7 (bước hiện tại) : Doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp vừa bắt đầu chết. Doanh nghiệp vừa có 2 cách phân loại một là doanh nghiệp riêng rẽ giống như doanh nghiệp nhỏ, hoạt động trên một ngách thị trường, so với doanh nghiệp vừa nhưng hoạt động như một chuổi cung ứng với nhau, sản phẩm và vốn các doanh nghiệp phụ thuộc vào nhau. Hai là phân loại doanh nghiệp theo dạng đầu( sản xuất) cuối (thương mại). Trong bước này những doanh nghiệp vừa riêng rẽ sẽ đi trước kèm theo là hàng loại doanh nghiệp siêu nhỏ nằm trong chuổi phân phối của doanh nghiệp đó.

Dự kiến các bước tiếp theo phương án nhà nước vẫn tiếp tục hỗ trợ như phương án hiện nay.

Bước 8 : Doanh nghiệp vừa không chịu nỗi gánh tồn kho và tuyên bố bỏ cuộc. Sự bỏ cuộc của một doanh nghiệp vừa nằm trong chuổi cung ứng sẽ kéo theo hậu quả khác là doanh nghiệp nằm trong chuổi sẽ chết theo và bùng nổ vở nợ tín dụng dây chuyền. Bùng nổ tín dụng nợ sẽ khởi đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính (giống như cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ).

Bước 9 : Khủng hoảng tài chính bùng nổ. Ngân hàng dư tiền nhưng không cho vay được. Các khoản tín chấp vay trong xã hội hoặc thế chấp trong giai đoạn đầu khủng hoảng biến thành nợ xấu không đòi được. Ngân hàng đi vào phá sản.

Bước 10 : Tỉ lệ sức mua giảm đáy, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao, dòng tiền tắt nghẻn trong lưu thông. Người dân quay về nền kinh tế tự cung tự cấp. Doanh nghiệp vừa tiếp tục phá sản hoặc liên kết lại bao tiêu sản phẩm cho nhau hoặc chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng, không nợ tín dụng. Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chết hết nhưng xuất hiện ngày càng nhiều tiệm bán bách hoá, tạp hoá, kinh doanh gia đình, mua bán lòng vòng cho nhau.

Bước 11 : Doanh nghiệp lớn buộc phải bán tháo tồn kho với giá siêu rẻ để tránh phá sản. Nền kinh tế sẽ hình thành một hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ mới không nợ, không tồn kho, linh hoạt hơn để tiêu thụ được số tồn kho giá siêu rẻ đó.

Bước 12 : Tổng sản phẩm quốc dân sẽ mất giá hoặc suy giảm về lượng, sự suy giảm tiệm cận gần với sức mua, khủng hoảng sức mua chấm dứt.

Cái giá để trả là chúng ta sẽ lùi đi khoảng phát triển nào đó. Nhưng không sao, khủng hoảng rồi sẽ qua đi bởi người dân ta đã có thói quen chịu đựng rồi. Ta chịu được cả ngàn năm chiến tranh, chịu được 10 năm cấm vận, chẳng lẻ không thể vượt qua được khủng hoảng hay sao.

17 tháng 5, 2012

Khủng hoảng kinh tế - tại sao không thể vay ngân hàng trong lúc này

Có 4 nguyên nhân chính khiếnhệ thống ngân hàng, không thể cho vay tốt khi mà lải suất cho vay đãxuống dưới 15%. Khi mà theo thông tin trên các phương tiện truyền thôngrằng đầu vào quá dư dả.
1. Từ khủng hoảng sức mua hiện nay. Khủng hoảngsức mua là doanh nghiệp không bán được hàng vì người mua đã không cònđủ tiền để mua. Hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất số lượng vẫn phùhợp với nhu cầu tiêu dùng. Nhưng người tiêu dùng không còn tiền vàmức tích luỹ dự phòng khủng hoảng tăng cao nên người mua hạn chế rấtnhiều trong chi tiêu. Hệ quả khủng hoảng là hàng tồn kho trên diệnrộng. Với lượng hàng tồn kho như vậy, nếu có cho doanh nghiệp vay,thì họ cũng không dám vay, vì chẳng ai dám chắc tiếp tục sản xuấtthì có bán được hàng hay không. Nếu cần vay trong giai đoạn này, doanhnghiệp vay để trả lương hoặc chi phí để không đi đến con đường phásản hoặc giải thể.
2. Lãi suất 15%, tuy đã giảm nhưng vẫn còn quácao. Những doanh nghiệp hiện còn đang tồn tại hoặc đang cố tồn tạiđều ý thức rằng, muốn bán được hàng phải giảm giá bán. Việc giảmgiá bán dưới nhiều hình thức như hạ giá, khuyến mãi. Trong một hoạtđộng kinh doanh thông thường mức lợi nhuận bình quân một năm khoãng 15%được xem là quá tốt. Nếu doanh nghiệp nào có đủ vốn để hoạt động(thông qua chứng khoán, hoặc cổ đông), vốn vay chỉ đáp ứng nhu cầutình huống khẩn cấp như nhập hàng, thanh toán công nợ, trả lương khichưa đến hạn kỳ thanh toán, thì mức vay 15% còn có khi chịu đựngđược. Nay toàn bộ vốn doanh nghiệp nằm trong hàng tồn kho, tìm kiếmthêm nguồn vốn mới trong thị trường chứng khoán, trong kênh đầu tư tàichính là điều khó khăn, thì việc vay toàn bộ vốn cho hoạt động sảnxuất kinh doanh tại ngân hàng với mức lãi suất 15% thì giá bán chỉcó tăng chứ không thể hạ.
3. Ngân hàng vốn dĩ là một trong những công cụđiều tiết vốn cho nền kinh tế. Trong hoạt động kinh tế thông thườngnền kinh tế như bề mặt của mặt đất, địa hình lồi lõm, cao thấp bấtthường. Chổ lõm là nơi cần vốn, chổ cao là nơi chống trời. Khôngphải cứ doanh nghiệp lớn mới cần vốn và cũng không phải doanh nghiệplớn mới thúc đẩy được nền kinh tế phát triển. Mà trái lại doanhnghiệp vừa mới là nơi thúc đẩy nền kinh tế thông qua việc lắp đặtnhững nhông xe vào giữa các doanh nghiệp lớn, khiến nền kinh tế vậnhành được trơn tru. Khi nền kinh tế phát triển tốt, các doanh nghiệplớn sẽ là đầu tài kéo theo các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng khinền kinh tế đi vào khủng hoảng, các doanh nghiệp lớn dừng lại, phảicần có doanh nghiệp vừa và nhỏ để kết nối và lắp đầy vào nhữnglổ hổng do doanh nghiệp lớn tạo ra. Phân bổ nguồn vốn vay trong giaiđoạn này phải phân bổ vào doanh nghiệp vừa và nhỏ mới hợp lý. Doanhnghiệp vừa thường là một mắt xích trong một dây chuyền, cứu đượcmột doanh nghiệp vừa là cứu cả dây chuyền. Vả lại vốn cho một doanhnghiệp vừa thấp hơn nhiều so với một doanh nghiệp lớn, với từng sốvốn đó, có thể cứu được nhiều doanh nghiệp vừa hơn là cứu một doanhnghiệp lớn. Nhưng hệ thống ngân hàng của ta chỉ chăm vào các doanhnghiệp lớn. Quản trị về khách hàng của hệ thống ngân hàng có vấnđề. Do tỉ lệ chênh lệch giữa tiền gửi và tiền vay cao, ngân hàng gầnnhư có khuynh hướng lấy tiền gửi cho đi vay và vì thế tạo ra lợinhuận. Chính động thái này, khiến khách hàng co cụm về những doanhnghiệp có khả năng vay. Trong khi thực ra lợi nhuận chính của hệthống tài chính là đầu tư. Đầu tư tài chính mang lại một khoản lợinhuận bao giờ cũng cao hơn chênh lệch lải suất, nhờ đó ngân hàng mớicó thể giảm lải suất tiền vay mà không ảnh hưởng đến lợi nhuận.Ngân hàng bây giờ không kiếm khách hàng để đầu tư mà chỉ tập trungtìm kiếm khách hàng muốn vay nợ. Khi khách hàng không dám vay nợ ngânhàng không thể kiếm được khách đầu ra nào khác.
4. Quản trị khách hàng có vấn đề vì sao, vìquản trị rủi ro quá kém. Cho vay là chấp nhận rủi ro, đầu tư làchấp nhận rủi ro lớn hơn nhiều. Lớn thuyền thì lớn sóng. Lợi nhuậntốt hơn thì rủi ro đầu tư cao hơn. Không chấp nhận rủi ro, cho vay cònkhông được chứ nói chi đến đầu tư. Mà lổi này do quản lý nhà nước.Liên tục yêu cầu ngân hàng tăng vốn, khiến mỗi ngân hàng trở thànhmột võ sĩ Summo, quá khổ. Hoạt động ngân hàng hiện giờ như là mộthoạt động hỗ lốn, gọi là kinh doanh tài chính tổng hợp, đâu có lờithì đầu tư. Ngân hàng không chuyên ngành, không cán bộ chuyên trách trêntừng lãnh vực sản xuất làm sao đối diện với rủi ro trong đầu tư kinhdoanh. Ngân hàng và hệ thống tài chính quốc gia mà không quản trịđược rủi ro để không dám đầu tư hoặc cho vay kinh doanh thì nền kinhtế chết chắc.
Nguyên nhân 1 là nguyên nhân khách quan trên thịtrường, nguyên nhân thứ hai một nửa là thị trường, một nữa là do ngânhàng. Nguyên nhân 3,4 là hoàn toàn do chủ quan ngân hàng.
Tin xấu là sửa sai cho những nguyên nhân trênphải có thời gian. Nhưng tin tốt là ngân hàng không phải là nguyên nhânchính cho cuộc khủng hoảng sức mua hiện nay. Muốn giải quyết đượckhủng hoảng phải giải quyết được nguyên nhân thứ nhất mà đó làngoài tầm với của hệ thống tài chính. Trong thời gian chính phủ xửlý sức mua (cân đối cung cầu trong sức mua), hy vọng hệ thống ngânhàng sẽ giải được hai bài toán về quản trị khách hàng và quản trịrủi ro. Phần cung và cầu trong sức mua tuy cân đối, nhưng cung cầu cógặp nhau hay không là nhờ sự điều tiết của hệ thống tài chính màdẩn đầu là hệ thống ngân hàng.